Thứ Tư, 11 tháng 5, 2022

Bình thơ





Chia sẻ cùng tác giả Giang Hoa bài thơ DUYÊN CỚ CHI

DUYÊN CỚ CHI..

Mần răng tôi về chi bên nớ.

Để rồi chừ qua sông lỡ chuyến đò

Giận hờn chi đến nỗi trời đổ mưa

Chiều ni nhớ răng tui ưa khóc quá


Bồn chồn dạ xót xa buồn chi lạ

Nhớ người ta nhớ cả Mạ ngày xưa 

Cứ hay rày đứng ngoài nớ vắng khuya 

Lúc trăng ló khi chuông chùa vang vẳng


Nhớ chưa hỉ răng chừ người quên bẵng 

Chừ tui buồn hụt hẫng có biết khôn

Nhớ bóng xưa lòng dạ như mất hồn

Thương chi lạ chờ mong rồi mộng mị


Xưa dại khờ phải lụy chuyến đò ngang 

Chừ hụt hẫng lang thang trên phố cũ

Chân khập khễnh kéo lê về bến Ngự

Nhìn màu chiều úa rủ sắc vàng loang


Nì lạ rứa buồn hoang tàn quá đỗi

Nơi chỗ xưa nguồn cội của tình yêu 

Phượng xác xơ cảnh vật tím tiêu điều

Bèo trôi lạc ngược gió xuôi đường mộng


Bên ni bờ đứng ngóng bên tê sông 

Nơi hàng giậu Mạ trồng ngăn chia lối

Nhớ khôn hỉ .. đôi lần hai đứa dỗi

Người nhìn tui xin lỗi dù khôn sai


Chừ mần răng tui tìm ai ngỏ bày

Mô tàn nhẫn đắng cay chi lạ rứa

Ni với nớ bên tê mần răng dựa

Duyên cớ chi đã hứa khôn giữ lời

12.03.2021


Biết rất ít về Huế, lần đầu Huế níu chân nhỏ loang vệt mực tím với vài phút cùng cô bạn gái bán bún bò ở ga Huế, hai mươi mấy năm sau có nguyên một buổi tối,lang thang dọc bờ sông Hương nghe ríu rít tiếng ai thoảng trên cầu Tràng Tiền, và một ban mai tan chảy ngắm cảnh sắc mờ ảo sông Hương từ lối đi dát gỗ lim ven bờ, rồi sau đó vọng hồn vào lịch sử giữa Hoàng Thành hoang lạnh. 

Vậy thôi nhưng thích Huế vô cùng, yêu Huế vô cùng, nhớ Huế miện man, cứ như là một lời lỡ hẹn cả đời không quên. 

Rồi chiều nay cảm xúc lại trầm lắng và thầm lắng khi đọc bài thơ DUYÊN CỚ CHI của Giang Hoa. 


Mần răng hẹn tui về chi bên nớ

Để rồi chừ qua sông lỡ chuyến đò

Giận hờn chi đến nỗi trời đổ mưa

Chiều ni nhớ răng tui ưa khóc quá


Tiếng Huế không nặng như một số nơi khác của miền Trung. Tiếng Huế rất nặng tình. Cứ như người Huế chỉ luôn nói những điều mà họ đã nghĩ từ lâu rồi. Vị đằm thắm lồng vào cái thần thái điềm tĩnh mà bộc lộ cảm xúc tạo cảm giác níu chân ai. Lời trách móc, cái duyên hờn dỗi cứ mượn mưa, mượn sông, mượn đò mà giãi tỏ sao nặng chân tình chi lạ


Bồn chồn dạ xót xa buồn chi lạ

Nhớ người ta nhớ cả Mạ ngày xưa 

Cứ hay rày đứng ngoài nớ vắng khuya 

Lúc trăng ló khi chuông chùa vang vẳng


Mà cũng có chi “chi lạ” hầy. Yêu chi yêu lắm lắm, hổng hay chứ tui có xinh lắm lắm hay không nhưng người ấy thương tui như rứa, ắt hẳn yêu lắm, đáng yêu vô cùng. Sự xuất hiện của Mạ càng làm tui thêm “khuê các, đài trang” mặc cho ai (chắc là cho HẮN) cứ nhìn trăng mà họa, nghe chuông chùa mà nhớ. “Vắng” và “Khuya” càng như chất xúc tác hút hồn kẻ đợi. 


Nhớ chưa hỉ răng chừ người quên bẵng 

Chừ tui buồn hụt hẫng có biết khôn

Nhớ bóng xưa lòng dạ như mất hồn

Thương chi lạ chờ mong rồi mộng mị


Xưa dại khờ phải lụy chuyến đò ngang 

Chừ hụt hẫng lang thang trên phố cũ

Chân khập khễnh kéo lê về bến Ngự

Nhìn màu chiều úa rủ sắc vàng loang


Mấy ai yêu mà không mất hồn, mộng mị! Có ai mà yêu đo được dung lượng tình yêu, nên “Thương chi lạ” sẽ theo cuốt cơn mộng mị cuộc đời. Càng yêu càng nhớ, cơn mộng mị càng “cụ thể” trong vùng ảo ảnh tơ vương. Giống như hình ảnh của “Mạ” ở khổ thơ trước. Chỉ một “Bến Ngự” trôi vào trong dòng nhật ký yêu đương cũng đủ làm cho tác giả, ồ mà cho cả độc giả lảo đảo chân chiêu mà trôi vô thức vào dòng chảy “hồn bướm mơ tiên” thuở ấy. 


Nì lạ rứa buồn hoang tàn quá đỗi

Nơi chỗ xưa nguồn cội của tình yêu 

Phượng xác xơ cảnh vật tím tiêu điều

Bèo trôi lạc ngược gió xuôi đường mộng


Bên ni bờ đứng ngóng bên tê sông 

Nơi hàng giậu Mạ trồng ngăn chia lối

Nhớ khôn hỉ .. đôi lần hai đứa dỗi

Người nhìn tui xin lỗi dù khôn sai


Chất liêu trai của tình yêu lắm lúc không cần yếu tố thần thoại. Kẻ yêu, kẻ nhớ kẻ mộng cứ nhẹ tênh giữa đời thực mà hóa thân vào cõi xưa. Kỷ niệm rất thực từ hàng dậu “mạ ngăn” đến lời xin lỗi ngọt lừ chữ “Ninh” của “Người”. Khi viết mấy dòng này, tôi chùng cảm xúc lại và cứ tủm tỉm và thích thích từ “NGĂN” mà tác giả dành cho “Mạ” 


Chừ mần răng tui tìm ai ngỏ bày

Mô tàn nhẫn đắng cay chi lạ rứa

Ni với nớ bên tê mần răng dựa

Duyên cớ chi đã hứa khôn giữ lời


Huế trầm mặc, Huế điềm tĩnh,, Huế nặng tình chi lạ. Nhớ Huế vô cùng. 

Xuân Phong 15 / 03 / 2021 

Ảnh: Sưu tầm từ trang Hội người yêu Huế. Cảm ơn tác giả

Thứ Sáu, 18 tháng 3, 2022


BÀI THƠ: 

SÀI GÒN CÓ LẠNH KHÔNG ANH. 


                    -----"-----


Anh có còn nhớ hay không mùa đông xứ lạ, Giờ trời đã sang đông trở lạnh,


Em vừa bút xong mực cũng vừa khô ... nhìn qua song cửa sổ Phố Hội An mây trời khô lạnh viết gửi về anh với tất cả nỗi lòng của ngày xưa ấy, chuyện tình cảm nồng nàn, sâu kín mà em ôm ấp tự bấy lâu với bao vạn niềm tâm sự mượn dòng thơ trải hết nỗi lòng đến người xa xưa..

" SÀI GÒN CÓ LẠNH KHÔNG ANH."

Sài Gòn mùa nầy lạnh không anh.

Gió thổi từ đâu nghiêng ngả mành.

Khoác áo phong sương chiều xuống phố

Mà nghe sắc úa cả trời xanh.


Xưa nhớ trên cầu qua lối nhỏ.

Sau xe úp mặt ngả nghiêng dài.

Đường chênh ngược gió xe quay chậm.

Tựa mặt vào lưng lệ mắt cay.


Tìm hơi nồng của hương ngày ấy.

Mới thấm đông này lạnh buốt thâu.

Anh bảo Sài Gòn không có lạnh.

Sao nghe gió hát ở tầng cao.


Chân gầy guốc mộc đi trên phố.

Lá của me vàng phủ kín chân.

Anh bảo sông Sài Gòn chẳng gió.

Nhìn đông lòng có chút bâng khuâng.


Trời chiều mây xuống xuyên kẽ lá.

Một chút nắng hồng đổ xuống sông.

Ghế đá khi xưa người đã vắng.

Trên cao chót vót tiếng chim non.


Ai bảo Sài Gòn không có gió.

Mưa chiều xối xả suốt mùa đông.


Thơ : Giang Hoa- Nguyễn Bích Yến

------------


LỜI BÌNH:

( Bài thơ hay tuyệt vời!)

-------

Phố Hội bây trời đã vào đông ... gió hắt hiu se lạnh, mây chiều dập dìu bay trên tầng không cao rộng .

Con Phố buồn vì trải qua bao lần dịch dã. Đường vắng thưa chẳng một bóng người khiến lòng người càng thêm cô quạnh ..  


Trong nỗi lòng bâng khuâng xao xuyến, trước cảnh chiều buồn, em chạnh lòng cảm nhớ về anh. .. nhớ Sài Gòn những ngày ấy  .... em hoài thương về kỉ niệm . 

Bao nhiêu ký ức quay trở về ,tất cả như còn đây vẫn ẩn hiện trong em. 

Em thương thật nhiều và nhớ nhung vô hạn.  

Nên tự chất vấn lòng mình..


"Sài Gòn mùa này lạnh không anh.

Gió thổi từ đâu nghiêng ngả mành.

Khoác áo phong sương chiều xuống phố.

Mà nghe sắc úa cả trời xanh."


Vẫn trong em một vùng trời kỉ niệm của thời trai mơ, gái mộng đang tuổi xuân thì mà em đã nhởn nhơ trong tà áo trắng ,cắp sách đến trường.

Buổi ấy chúng mình yêu nhau, tung tăng trên những lối mòn qua công viên mỗi chiều tan học, ngồi uống cà phê, rồi đèo nhau trên chiếc xe đạp cút kít qua các nẻo đường.

Con ngựa sắt ấy lượn vòng quanh khắp phố, vượt dốc cầu cao  ...chênh chao gập ghềnh sỏi đá. Ngồi sau lưng tựa vado anh mà miệng luôn cứ hỏi : anh có mệt lắm không, trong khi vạt áo sau lưng thấm đẫm mồ hôi. Sự cảm thương dâng trào lẫn niềm yêu vô bờ bến, cảm động tựa đầu vào lưng anh mặc tình để cho giọt nước mắt hoen mi


"Tìm hơi nồng của hương ngày ấy .

Mới thấm đông này lạnh buốt thâu.

Anh bảo Sài Gòn không có lạnh.

Sao nghe gió hát ở tầng cao."


Anh nói rằng Sài Gòn đông không lạnh em chẳng tin đâu, bởi lòng em buốt giá khi đông về thiếu vắng anh....thiếu vòng tay nồng ấm. Em se dạ héo lòng , khi gió chuyển mùa sương quyện tầng không, réo rắt lời than cảm nhớ!

Vậy mà Anh vô tình chẳng chút bâng khuâng khi đông chiều khói đọng. 

Anh không xao xuyến lòng khi một mình lẻ bóng,

Anh không thấy nhói đau khi dòng sông gợn sóng. 

Anh nào để ý khi chiếc lá me rơi. 

Anh không nghe con sông thổn thức buồn 

Anh không thấy dấu chân bước rã rời trên khắp con phố.

Ngược lại , ngày đó!


" Chân gầy guốc mộc đi trên phố.

Lá của me vàng phủ kín chân...

Anh bảo Sông Sài Gòn chẳng gió.

Nhìn đông lòng có chút bâng khuâng."


Nhớ không Anh... Nhớ những năm tháng Sài gòn đong ngập đầy bao nhiêu hồi ức để rồi một ngày con thuyền rẽ sóng bước sang ngang, trời mây như phủ một màu đen huyễn hoặc ..


Sài Gòn trong em với niềm thương nhớ ngút ngàn và nỗi thương buồn da diết.

Thành phố cổ buồn không có anh bên cạnh cho Em cảm nhận sự trống trải mênh mông rồi chiều nay lúc tà dương ngã bóng , nắng xuyên cành lọt lá ... .Mây xuống chân trời, ráng hồng sầu le lói .

Tưởng đến công viên trống lặng, ghế đá thiếu kẻ ngồi. Trên cành chim thôi hót...

Một nỗi buồn vô hạn --


Sài Gòn trong em, một giấc mộng u hoài ...khắc hằn theo năm tháng và anh đừng nói với em Sài gòn không có lạnh không có sương rơi mỗi đêm về...


 "Ai bảo Sài Gòn không có gió.

Mưa chiều xối xả suốt mùa đông"


* Bài thơ đã chạm vào lòng người đọc một nỗi buồn man mác, một nỗi trách hờn nhè nhẹ đã cho Phạm Niêm cảm xúc bình qua bài thơ "Sài gòn có lạnh không anh"


Phạm văn Niêm

(Trà Vinh 19/3/2022.)

Thứ Tư, 9 tháng 2, 2022

Bàn Về Thơ Lục Bát Với Nữ Sĩ Giang Hoa Trong các thể thơ hiện có ở Việt Nam, tớ thấy thơ lục bát là thể khó làm nhất. Lục bát thì ai cũng có thể viết được vì hình thức cực kỳ đơn giản cứ trên 6 dưới 8 liền tù tì rồng rắn lên mây. Nhưng viết lục bát đúng thực là lục bát, thì thơ phải có linh hồn có sức sống lại cực kỳ khó. Nữ sĩ Giang Hoa viết bài "Say Sầu" này hay lắm, chỉ có 8 câu thôi mà chan chứa tình người ấn ý sâu sa còn bao nhiêu điều muốn nói phải tự suy ngẫm lâu mới hiểu ra, mới thấy cái hay thần diệu của thơ lục bát. Nhiều người tưởng thơ lục bát dễ nhần dễ nhai, nên tung tăng làm thơ lục bát biến thành ca dao hò vè. Nếu đạt được như ca dao cũng tốt. Vì ca dao mới đầu còn nôm na do quảng đại các tầng lớp xã hội. sau nhiều thế hệ sửa chửa thêm bớt truyền khẩu mà trở thành những bài ca dao hay cho các bà mẹ ru con ngủ. Trường hợp cá biệt chữ số 2 có thể vần trắc trong câu, nhưng ở giữa câu phải có cái dấu phảy như Cụ Nguyễn Du đã làm. Nếu không có dấu phảy là sai về nguyên tắc đổi thanh. Có những cao thủ còn làm thơ cả vần trắc câu 6 chữ số 6 vần trắc, chữ số 6 ở câu 8 dưới cũng trắc. Trường hợp này hiếm hoi lắm. Phải những tay bợm thơ giỏi âm luật mới làm nổi. Giang Hoa làm thơ lục bát tuyệt tác lắm. Hà lão phu cảm hứng luôn ra song thất lục bát liền. Ca dao là văn hóa bình dân của tầng lớp thất học, số đông không biết luật làm thơ lục bát mà chỉ đại khái trên 6 dưới 8 nghe có vần tí chút là được. Vậy không nên lấy ca dao làm kiểu mẫu, chỉ nên tham khảo chớ nên học tập nhiều ở ca dao mà bỏ qua lề luật cơ bản. Ngày xưa lúc tớ học lớp ba trường làng có ông chú rể người Quảng Nam hát bài con cò. Đai để là: Con cò mà đi ăn đêm Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao Ông ơi ông vớt tôi vào Tôi có lòng nào ông sáo với măng Có sáo thì sáo nước trong Đừng sáo nước đục đau lòng cò con. Ông tớ rất sành Hán Nôm mới phân tích rằng: Đây là ca dao bình dân, thường là những người không biết chữ, nhưng qua nhiều thế hệ họ đã gọt rũa hoàn chỉnh. Nguyên tắc lục bát các chữ số 2, 4, 6 phải bằng trắc bằng của câu 6 còn cạu 8 là: bằng, trắc, bằng, bằng. Nhưng câu ca dao này đã biến cách lục bát. Câu 6 toàn vần bằng thì câu 8 chữ số 6 phải trắc.Chữ đêm câu 6 lại vần chự số 4 câu 8 là mềm. Nghĩa là luôn có sự chuyển vần nhuần nhuễn theo nguyên tắc đổi thanh. Nguyễn Du cũng học theo cách biến đổi này của ca dao, vì một thời Cụ theo mẹ hát phường vải. Nên cả bài lục bát trường thiên của Cụ các chữ số 2 trong hai câu lục bát luôn vần bằng. Nhưng thỉnh thoảng cũng có trắc thì câu đó phải bổ đôi tách nhau bởi cái dấu phảy. Nều không có dấu phảy là hỏng. Làm một câu thơ phá cách đòi hỏi rất công phu, nghệ thuật thơ cũng phải điêu luyện. Ví dụ thơ Nguyễn Du Người quốc sắc, kẻ thiên tài Tình trong như đã, mặt ngoài còn e Cả hai câu đều bị bổ đôi bời cái dấu phảy. Nếu còn bình thường ra muốn làm học làm thơ lục bát thì như nên nghe nữ sĩ Giang Hoa nói. Giang Hoa này làm thơ rất cầu kỳ, thể loại niêm luật rất chặt chẽ, nhất là thơ đường. Ông tớ giảng giải rất kỹ cho tớ về thể loại thơ lục bát. Ông bảo ca dao phần lớn do lớp người bình dân thơ ho rất giản dị mộc mạc mà hay. Cháu thử nghĩ xem một anh dân ngu cu đen họ cũng biết làm thơ lục bát. Dù nghèo đói họ cũng muốn sống trong sạch như đến con cò cũng muốn chết trong nước sạch và muốn sáo với măng kia. Còn những bậc hiền nhân học gỉa học vấn cao thâm thì họ lại không muốn cuộc đời chỉ trong sạch thôi chưa đủ. Họ biết cái nhục của sự sống dai thừa thãi. "Ninh thọ tử bất ninh thọ nhục." Bây giờ những người theo triết học hiện sinh phương Tây kiểu Nietzsche thì muốn hiện sinh chứ không muốn chỉ tồn tại. Muốn tạo ra những phóng thể ý chí hùng cường, muốn dấn thân vào con đường văn minh tiến bộ học thức kể cả trong thơ ca văn đàn. Chứ không thể ù xoẹ tâng bốc mãi anh Khổng Tử và mấy ông già làng cổ hủ. Bà Đoàn Thị Điểm không thích thơ lục bát mà chỉ song thất lục bát. Nhưng thơ bà bài Chinh Phụ Ngâm nên đứng sau Ôn Hầu Nguyễn Gia Thiều trong Cung Oán Ngâm Khúc về thể song thất lục bát cực kỳ điêu luyện. Từ xưa đến nay tớ chỉ thấy Cụ Nguyễn Du là một tiền bối cao thủ, thượng thừa về thơ lục bát. Thể song thất lục bát độc đáo có tướng quân Nguyễn Gia Thiều. Tớ đã bái phục hai vị này là đại tổ sư. Hàng nghìn câu thơ lục bát của Cụ Nguyễn Du không chê vào câu nào. Một bức tranh hoành tráng muôn màu muôn sắc ý tứ cao thâm nghệ thuật tu từ siêu đằng phong phú vô cùng. Nguyên tắc sơ đẳng nhất nên biết khi ai đó có ý định làm thơ lục bát. Còn các trường hợp ngoại lệ biến cách xin miễn bàn. Biến cách cũng có nguyên tắc của biến cách. Không thể cứ chữ số hai trong câu đáng lý vần bằng lạị viết trắc còn gân cổ cãi biến cách đấy. Cả đời Cụ Nguyễn Du chỉ làm thơ đường luật. Thơ đường của Cụ đã tuyệt đỉnh Cụ vượt qua khuân sáo niêm lụật cung đình thi cử của đám quan trường xôi thịt nhà Nguyễn. Bà Hồ Xuân Hương và ôngTrần Tế Xương thơ nổi tiếng như vậy loanh quanh cũng chỉ có 4 phép niêm. Còn Cụ Nguyễn Du đã đạt tới 16 phép niêm. Bài Độc Tiểu Thanh Ký là một ví dụ về bể học kiến thức mênh mông của Cụ. Vua nhà Thanh tấm tắc khen Cụ, nhưng đám vua quan nhà Nguyễn lại ngu dốt chê Cụ làm thơ đường phá niêm luật. Ở đây bàn về thơ lục bát nên tớ không muốn miên man sang địa hạt thơ đường. Khi đi sứ nhà Thanh về một học gỉa cũng là thuơng nhân người Việt ở Bắc Kinh tặng Cụ Nguyễn Du cuốn Kim Vân Kiều Truyện viết bằng chữ Hán của Thanh Tâm tài nhân. Vua Gia Long ban thưởng Cụ Nguyễn Du mấy tháng nghỉ ngơi và Cụ cho dựng lầu tre ra mặt sông bắt tay vào viết Truyện Kiều. Lúc đầu Cụ định viết thể song thất lục bát, nhưng thấy thể này thê lương qúa, vả lại đã có Nguyễn Gia Thiều và Đoàn Thị Điểm viết rồi, nên Cụ viết Truyện Kiều bằng lục bát. Thời gian này may qúa có người cháu đỗ tiến sĩ đọc thơ bình luận góp ý và cụ Nguyễn Du 3 tháng miệt mài làm việc dồn hết tâm huyết tâm hồn mới viết xong một đại tác phẩm cho chúng ta ngày nay đọc và học tập Truyện Kiều là một tác phẩm thơ lục bát dài dằng dặc cực hay, thế nhưng đám con cháu bất nhân vô học hãnh tiến đã dám tự ý sửa hàng nghìn chữ trong thơ Cụ . Chúng ta ai cũng biết mặt thày trò nhà Vũ Khiêu và Minh Xuân gì đó đã đào mả hiếp dâm nàng Kiều chúng phá trinh nàng Kiều của Cụ Nguyễn Du một tác phẩm văn chuơng uyên bác thành củ khoai hà. Trên mạng facebook tràn ngập đám dư luận viên đám Chí Phèo Thị Nở chuyên gìa mồm cãi chày cãi cối cung quăng bàn láo về thơ. Tranh nhau tâng bốc nhấn like, nhấn chuột vô tội vạ cho nhau theo cảm tính, cho mình phải thì là phải, trích dẫn linh tinh nhắng nhít miên man, dây cà ra dây muống, mà chả hiểu cái cóc khô gì, tự cảm th ấy mình cũng giỏi giang về thơ phú lắm. Chết cười, đã dốt không biết dựa cột mà nghe cứ khệnh khạng ngoáy mông lúc lắc quả cà mà tưởng mình ghê gớm, hay chữ lắm, không có cái đầu biết suy nghĩ, tấm lòng chân thành biết hưởng thụ cái hay của thơ, biết lắng nghe học tập, luôn luôn cố chấp bảo thủ ngu lâu, ngu dai ngu bền. Ngu đến chết không thôi, kiên trì kiên định ngu đến cùng. Buồn thảm tay sa đọa thay cho nền văn hóa Việt Nam. Cái gì đáng khen đáng học thì chê bai, cái gì cặn bã rác rưởi thối hoắc từ đời tám hoánh nào rồi thì thi nhau ca ngợi. Hơi một tý tổ tiên ta có người viết thế này thế nọ, nhân dân ta cực kỳ vĩ đại thơ ca tràn trề lai láng, quảng đại quần chúng học theo bác Mao trăm hoa đua nở viết thế kia. Sức mạnh tập thể của nền văn hóa công nông. Cứ cái gì của ông nông dân đều to lớn cả, thơ ca hò vè củ chuối cũng to. Tất nhiên ta không phủ nhận thơ ca, ca dao truyền khẩu Việt Nam khá phong phú. Nhưng phải biết đọc có chọn lọc suy nghĩ với tinh thần ham học hỏi say mê tiếng Viêt. SAY SẦU ... Giọt sầu giọt đắng giọt cay Tâm sầu sẵn có ta say cuộc tình Rượu đâu uống cạn so bình Để cho quên hết mối tình trớ trêu ! Đâu rồi ? người hỡi ! tôi yêu ... Càng say ta lại càng yêu nhớ người ! Trong cơn hoang dại ta cười Lắc lư chén rượu giao bôi say cuồng 02.09.2017 Thơ: Giang Hoa Tấm Thân Cát Đằng cảm hứng thơ lục bát của Giang Hoa: Say Sầu Nâng chén rượu giọt sầu giọt đắng Hồn mây bay đằng đẵng tháng năm Thuơng cha mẹ nhện tơ tằm Lờ đờ cá lội trăng rằm ngẩn ngơ Người xưa hỡi bơ vơ tình ái Bến đò hoang tê tái xót xa Vân du lãng tử quan hà Nắng mưa tầm tã quê nhà ta đâu ? Hạt bụi đỏ bể dâu trần thế Gió mùa thu kể lể nguồn cơn Mồng hai tháng chín đòi cơn Nửa đêm gà gáy giận hờn cuồng say Cung đàn hạc buồn day dứt khóc Nửa cuộc đời khó nhọc bàn chân Kim bôi mắc nợ Châu Trần Loan chia thúy rẽ tấm thân cát đằng Dậu bìm đổ dở dang duyên phận Miền gía băng tủi hận trái tim Đại dương mải miết đi tìm Vu thần đỉnh giáp cánh chim hải hồ …! 2.9.2017 Lu Hà


Cảm Nhận khi đọc xong bài thơ " BUÔNG " của nhà thơ Giang Hoa
.


-------------

LỜI BÌNH: PHẠM NIÊM

Tình cảm là sự rung đông của cõi lòng  của con tim.Tình cảm được bộc lộ qua cái nhìn ánh mắt bờ môi, qua hành động ngôn từ.Nó còn thể hiện qua những trạng thái tâm hồn như buồn vui ái luyến ,ghét giận sân si.

Tình cảm được phân loại như sau: 

  - Tình yêu quê hương.

  -  Tình yêu gia đình.

  -  Tình bạn bè thân thiết.

Tình cảm nói chung nó là sự bình thường trong xã hội trong cuộc sống của mỗi con người chúng ta.


Còn thi ca là sản phẩm của thi nhân, được sáng tạo bởi con người qua nét bút lời ngôn.

Thi ca là món ăn tinh thần của nhân loại.Thi ca phản ánh tính nhân văn , nghệ thuật  , biểu hiện cho tâm hồn con người.Ngày xưa Phật đã dùng thi ca mà giảng dạy đạo lý.Nữ sỹ Giang Hoa nay cũng nhằm mục đích mượn thi ca để "Văn dĩ tải đạo".Chúng ta hãy đọc bài thơ sau đây của tác giả để so sánh quan điểm nầy.


Thơ :   BUÔNG.


TÌNH có chăng là lẽ tự nhiên.

THƠ hong dưới nắng rực chân thiền.

CŨNG dòng tứ tuyệt bên thư án.

HẾT cuộc hí trường giữa vạn thiên.

MÀU hạ hoàn năng giàu chất sáng.

HƯƠNG thu hóa mộng ngập tâm hiền.

LỬA hừng vụt cháy thiêu lòng dạ.

CHỮ SĂC KHÔNG MÀNG CHỮ NỢ DUYÊN.


Giang Hoa.


Đây là một bài thơ thất ngôn bát cú theo thể loại Khoán thủ tung hoành trục.

Nội dung nói rằng con người có cuộc sống, có tình duyên.. nghĩa bạn là lẽ thường mà tạo hóa ban cho , nhưng chúng ta cần phải biết trân trọng mến quý .Sống sao có ý nghĩa  bởi  cuộc đời ngắn ngủi tựa chốn hí trường ,như sân khấu và không tồn tại bao lâu trong sự vạn thiên biến đổi của tạo hóa sắp đặt an bày. Cho nên tác giả Giang Hoa nói:


Tình có chăng là lẽ tự nhiên.

Thơ hong dưới nắng rực chân thiền.


Hai câu mỡ đầu theo nghĩa đen thì không có gì sắc xảo., nhưng nghĩa bóng ta phải hiểu rằng giữa cuộc đời vô thường này có rồi không , không để rồi có . Cũng như đến để rồi đi, đi để rồi đến.Do vậy Tình có chăng là lẽ tự nhiên thôi.

Thơ hong dưới nắng rực chân thiền.

Thơ hong dưới nắng không phải là đem phơi vì thơ ướt lệ mà ý nói thơ phơi bày ra trước vầng dương dưới mắt mọi người phơi bày những điều hay ý đẹp  tỏa sáng để người có tâm thiện lành rọi soi  vẻ nét , thấy ánh sáng đạo lý  rèn luyện nhân tâm.( chân thiền).


Cũng dòng tứ tuyệt bên thi án.

Hết cuộc hí trường giữa vạn thiên


Vũ trụ tuần hoàn ...bốn mùa thay đổi theo qui luật.Nhưng tất cả mang nhiều sắc màu đặc biệt khác nhau  đều tuyệt diễm.

  - Mùa xuân không khí trong lanh ấm áp mát mẻ.

   - Mùa hạ mắng hong ,sen vàng ngậm vị., hoa cúc trổ bông khoe màu sắc thắm.

  ,- Mùa thu hương lan tỏa ngát mùi.,cảnh thu mơ màng thơ mộng, gợi nhớ gieo sầu cho tình yêu trỗi dậy.

Giang Hoa nói đúng thật:


Mùa hạ hoàn năng giàu chất sáng.

Hương thu hóa mộng ngập tâm hiền.


Con người vì bởi tham sân si theo bản ngã khi mà mình chưa hay không sở hữu điều mơ ước , tâm sinh nhiều phiền não. Lửa sân hận cuồng mê bất chợt vụt cháy tâm can đốt thiêu lòng chân dạ thiện, quên đi lời Phật dạy ĐỜI LÀ VÔ THƯỜNG mà BUÔNG BỎ bởi Sắc bất thị không không bất thị sắc., và cuối cùng Nhà Thơ Giang  Hoa đã kết thúc bài thơ của mình với hai câu kết:


Lửa hừng vụt cháy thiêu lòng dạ.

CHỮ SẮC KHÔNG MÀNG CHUYỆN NỢ DUYÊN.


Cuối cùng tôi xin mượn hai câu thơ trên để kết thúc bài cảm nhận của mình.


"Tình có chăng là lẽ tự nhiên.

Thơ hong dưới nắng rực chân thiền."


Xin chân tình cảm ơn các bạn.


Phạm văn.